Cuốn sách đầu tiên trong đời tôi được đọc là Điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam – của bố, khổ nhỏ xíu, vừa đánh vần vừa đọc từng dòng. Cuốn sách thứ hai là Thơ Tố Hữu – của mẹ, vừa nằm vừa đánh vần từng câu, hậu quả là lên lớp hai tôi đã bắt đầu làm thơ, câu nào câu nấy y hệt Tố Hữu viết.
Cuốn sách thứ ba là “Kỹ thuật tình báo” của ông trùm tình báo Allen Dulles, đọc thuộc lòng từng trang trong suốt những năm tuổi thơ. Gia đình tôi chỉ có đúng ba cuốn sách ấy, tôi đã đọc tới mức cho đến giờ, còn có thể nhắc lại nội dung từng đoạn, đặc điểm của các chương.
Nên đây là ba cuốn sách duy nhất mà trí nhớ tôi còn dành phần cho chúng. Sau đó, từ lúc bắt đầu mười tuổi, tôi ngốn như điên vô số sách từ các tủ sách của bạn học cùng lớp, tiếc đều đã quên. Những tác phẩm kinh điển phương tây, vài tiểu thuyết châu Á, đôi ba truyện Tàu, vài tập cổ tích, vô số sách khoa học kỹ thuật, đều đã biến mất trong trí nhớ.
Có lẽ, đó là đặc ân của thượng đế dành cho một người viết văn như tôi: Không bị ảnh hưởng, không biết sợ, không lo âu. Tôi chỉ nhìn thấy đời sống, tôi không nhìn thấy văn chương. Đời sống quý báu và muôn màu muôn vẻ, văn chương trên giấy chỉ mở ra một thế giới không tưởng hoặc huyễn tưởng người đọc. Chẳng có văn chương nào cao quý hơn được đời sống.
Nên thực chất, công việc viết văn của tôi hoàn toàn không phải là việc sáng tác văn chương, cũng không nhằm chiếm đoạt lấy đỉnh cao nhân văn và sáng tạo nào. Tôi viết chỉ để chuyện trò cùng mọi người, những người sống quanh tôi, sống cùng tôi một chặng đường đời.
Chúng ta nặng lòng vì đời sống và những thân phận, chúng ta coi sống mới là hành trình thiêng liêng nhất, và viết/đọc chỉ là hành vi thỏa mãn cái tôi cá nhân tương đương thủ dâm. Chẳng cần ai vỗ tay công nhận ta sành điệu khi thủ dâm. Thế là đủ.
Nên sau này, tôi luôn rưng rưng khi nhìn thấy những kẻ khốn cùng bán bóng bay còn nán ngồi đọc tờ giấy báo gói đồ hay cuốn sách lậu in nhòe nhoẹt bầy bán vỉa hè. Tôi sợ tất thảy mọi cuốn sách đóng bìa cứng và in chữ vàng, hoặc bọc bìa vàng, đóng khung trong hộp sang trọng. Tôi nghĩ sạp báo vỉa hè mới là thiên đường của độc giả, những nhà sách sang trọng hay cuộc họp báo ra mắt sách xôm tụ chỉ là một cử chỉ rởm đời của một nhóm nhỏ thị dân hiếu danh.
Nên đa phần tôi thường trốn mỗi khi được mời tham dự ra mắt sách. Nên nhiều nhà văn khác cũng trốn tôi khi được nhà sách mời tới buổi ra mắt sách của… Trang Hạ! Tôi hài lòng vì điều ấy. Độc giả chào đón tôi là đủ.
Tôi sợ những nhà văn khoác lên việc viết văn của anh ta những hào quang thiêng liêng, và các nhà phê bình khoác lên tác phẩm của người khác những vai trò to lớn. Đọc và viết nếu bản chất của nó là một hành vi mang nặng đặc thù cá nhân, thì việc phân tích và xếp loại sách văn (kèm theo đó là xếp loại nhà văn, xếp loại độc giả) chỉ là một việc vơ đũa cả nắm.
Giống như khi, khá nhiều người viết ở Việt Nam được gom chung tên gọi “nhà văn trẻ”, đã gây phản cảm, ngay cả với chính tôi, ngay từ khi tôi và bạn bè cũng đều mới mười bảy và đăng những truyện ngắn đầu tay trên báo học trò. Sao có thể phân loại nhà văn theo tuổi? Hoặc sao cứ khoác đại tên gọi “nhà văn” lên người viết mà bạn cũng không cho rằng họ là nhà văn?
Giống như chia hạng độc giả “cướp-giết-hiếp” và độc giả trí thức ưa sách văn học đích thực. Sao trên đời lại có kẻ tự cho mình quyền phân loại độc giả bằng đôi mắt của một con buôn sách?
Thế giới này chỉ chia ra người đọc sách và người không đọc sách mà thôi, hoặc đọc mà cũng như không, tâm hồn đóng băng trước mọi tiếng gõ cửa nhẫn nại của chữ.
Mười năm qua, nếu nói người đàn ông nào để lại ấn tượng sâu sắc nhất trong tâm trí tôi thì đó không phải là người yêu tôi, không phải là chồng tôi, cũng chẳng phải một tuẫn sĩ Romeo sến rớt nước dãi chết vì tình mà là một người lùn hói, giỏi giang nhưng thực dụng nên hơi vô cảm, song lại cực kỳ nhạy bén với thời cuộc và cũng rất trách nhiệm trong công việc, là ông manager người Đài Loan của tôi trong những năm tôi ở Đài Loan.
Thời điểm đó ngay ở Việt Nam, chỉ có vài ca sĩ nổi tiếng mới có manager hoặc trợ lý, tôi càng chưa từng nghe nói rằng, một người bình thường nào đó có người quản lý.
Tôi học được một vài tính cách tốt của người đàn ông ấy, mà điều đầu tiên là học được niềm tin vào bản thân, tin vào các ưu thế của bản thân và học cách tìm kiếm những không gian phát triển của riêng mình trong xã hội để tránh bị cạnh tranh. Đó là một người đàn ông kiên trì vạch ra kế hoạch thấu đáo cho một trăm năm đời tôi (biết sao được, dòng họ tôi thường sống qua tuổi chín mươi một cách mạnh khỏe minh mẫn và hạnh phúc). Và phân tích mọi dữ liệu để tôi thấy, ta đang là ai, ta đang đi về đâu, ta có quyền lựa chọn những Options nào cho đời mình.
Ông đưa ra bốn lựa chọn cho tương lai tôi, tất cả bốn lựa chọn đó đều mang lại lợi ích cho cá nhân tôi và lợi lộc cho những người xung quanh tôi. Tôi đã chọn cái thứ ba. Vì nó không chỉ mang lại lợi ích cho nhóm chúng tôi, nó mang lại nhiều thứ cho cả cộng đồng Việt tại Đài Loan nữa.
Ông ấy có một biệt tài là thu xếp tinh tế những cuộc gặp đúng lúc, cho tôi, gặp đúng người có quyền thực sự trong mảng chúng tôi cần. Thậm chí, có những cuộc họp dự án của tôi, ông ấy không đủ tư cách dự, thì ông lái xe chở tôi tới chân cao ốc, dặn tôi một hai trọng tâm cần phải giữ vững quan điểm, rồi tế nhị đỗ xe cách một quãng chờ đợi. Và trong phòng họp, thường đã có một người nào đó trong số những người ngồi quanh bàn, đã được ông ấy “gửi gắm” hoặc có lời từ trước.
Chỉ một việc cỏn con như thuyết phục tôi trả lại một giải thưởng văn học, ông cũng đã mất hơn tháng trời, phân tích đủ mọi lợi thế. Ông cho rằng, việc một nhà xuất bản của Việt Nam trao giải thưởng văn học cho Trang Hạ nhưng lại kiên quyết từ chối không xuất bản cuốn sách đoạt giải chỉ bởi, nội dung viết về đồng tính ái, là một lý do vô cùng tốt đẹp để khơi gợi sự chú ý của các nhóm độc giả. Tôi nên công bố trên báo chí về việc trả lại giải thưởng, bởi cuộc thi đã trôi qua một năm, giải thưởng mà tôi trả lại, Ban tổ chức không thể trao lại nó cho ai nữa. Còn trong lòng độc giả, Trang Hạ vẫn vĩnh viễn có giải thưởng đó. Và đồng tính ái là một lý do hoàn hảo để Trang Hạ quay lại văn đàn mới tư thế mới, tư thế nhập cuộc với thời đại.
Nhưng tôi lo ngại chần chừ chỉ bởi, tôi là người viết, tôi không phải nhân vật truyền thông để PR bản thân. Tôi không quen đối đầu dư luận. Tôi luôn có xu hướng từ chối mọi phiền toái để lui về một góc tự tại.
Sau này, mọi việc diễn ra gần như manager dự đoán. Chuỗi bài sự kiện tôi trả lại giải thưởng cho Hội nhà văn VN và NXB Thanh Niên chiếm nguyên cả trang báo Thanh Niên, Tiền Phong, Vietnamnet, Thương mại v.v... Sách Trang Hạ được độc giả đón nhận, với hình ảnh một nhà văn khác biệt, nhập cuộc với dòng chảy cuộc sống hiện đại, “Những đống lửa trên vịnh Tây Tử” và “Xin lỗi, em chỉ là con đĩ” tạo nên một nhóm độc giả mới rất trẻ và gắn bó với tôi.
Việc chuẩn bị các tiền đề cho tôi đi giảng dạy các học phần văn học tại Đại học của Đài Loan cũng mất mấy tháng, ông lựa đẳng cấp trường phải là trường quốc lập, tạo dư luận trên mạng, focus vào các tranh cãi về khác biệt văn hóa, gửi bài giới thiệu trước về tôi cho các giáo sư và nghiên cứu sinh, trong lúc tôi đang đi rong chơi chạy xe máy trên những vùng núi.
Nhưng việc ông manager đề nghị tôi phải trở thành nhà văn mạng, ông chỉ mất có hai tiếng đồng hồ để trao đổi, vạch ra hành trình và kế hoạch. Thời đó còn chưa có blog xuất hiện, tôi phải sử dụng trang mạng tiếng Hoa với những tản văn ban đầu tiếng Hoa, rồi viết thơ bằng tiếng Hoa. Những dự án du lịch, văn hóa, di dân, báo chí, từ thiện nối không dứt.
Ông luôn nhìn thấy cơ hội và đỉnh cao trước mắt tôi. Tới một ngày, con người hoang dã khao khát tự do trong tâm tính tôi nổi dậy chống lại tất thảy những sắp đặt, và tôi làm sụp đổ những dự định khá quan trọng của ông bằng cách vác chiếc bụng bầu to đùng lặc lè của tôi đi khắp Đài Loan, thì người đàn ông lùn hói vô cảm và cũng rất nhạy cảm kia, đã im lặng tôn trọng mọi quyết định của tôi. Không hề nói nặng lời một câu nào. Và đó mới chính là điều khiến tôi ghi nhớ mãi.
Tôi không rõ ông có nghĩ tôi là cuộc đầu tư thất bại của ông không. Nhưng tôi hạnh phúc vì được sống nhiều cuộc đời trong một cuộc đời.
Muốn một người đàn bà bướng bỉnh trở nên biết điều, thì hãy nhét vào bụng nàng một đứa con! Đẻ một đứa con là phải hy sinh cái tôi, nhưng nói cho cùng, mục đích sống của tôi là phải thỏa mãn cái khoảnh khắc hiện tại, chứ không phải là để sau khi tôi chết, người ta sẽ xây nhà tưởng niệm Trang Hạ.
Tôi cũng khao khát được sống trong một xã hội văn minh. Nhiều người đã di cư ra nước ngoài, thật nhanh chóng và ít rủi ro. Tôi lại khao khát được sống trong một xã hội văn minh hơn do chính tay tôi góp phần xây dựng lên. Vào thời điểm quyết định về Việt Nam, tôi đã bắt đầu nhiễm thói quen đặt từng chặng chinh phục của ông manager: Năm năm đầu tiên, tôi làm gì?
Tôi lựa chọn làm việc theo từ khóa. 2003-2008 là từ khóa “cảm động”, rơi nước mắt vì tình người. Mẹ điên hay Xin lỗi em chỉ là con đĩ, truyện sến v.v… thu hút độc giả là bởi từ khóa này. Bởi xã hội này thiếu nhất là nụ cười và nước mắt. Năm 2009, những ngày giáp Tết, tôi quyết định 5 năm đầu tiên kể từ khi tôi quay về Hà Nội, tôi sẽ lựa chọn từ khóa “phụ nữ”. Tôi muốn dù là viết văn, dịch thuật, trả lời phỏng vấn, tổ chức event hay ra sách, làm báo v.v… tôi đều hướng về từ khóa này. Tôi hy vọng khơi lên sự tự tin của phụ nữ, sự khao khát tiến bộ, sức mạnh thay đổi hiện tại từ lứa phụ nữ độc giả trẻ. Tôi không mang lại cho các bạn sức mạnh, tôi chỉ gợi lên sức mạnh tiềm ẩn có sẵn trong bạn. Tôi nghĩ phụ nữ xây dựng nên cuộc sống và không gian sống quanh mình, một phụ nữ độc lập chắc chắn là động lực để xã hội văn minh lên. Tôi hy vọng sau năm năm, tôi có một nhóm độc giả nữ có năng lực hành động, có chủ kiến riêng. Dù chủ kiến ấy sẽ khiến họ phủ định hoặc phản bác lại tôi. Mà xây dựng những quan điểm về phụ nữ tiến bộ cũng sẽ góp phần cải thiện thương hiệu Trang Hạ. Sự ra đời của “Đàn bà ba mươi”, chuyên san Lửa Ấm, các chuyên đề của Trang Hạ trên các tạp chí, những dự án truyền thông khá bình dân và có sức lan tỏa ít nhất đã làm tôi tin là tôi lựa chọn đúng.
Tôi dự định từ 2013, từ khóa của tôi sẽ là “người già – sự sống”. Tôi tha thiết muốn thay đổi những định kiến nặng nề của xã hội ta về người già và cái chết. Tôi không hiểu vì sao chúng ta luôn sợ hãi người già đi kiếm bạn tình, trong khi chúng ta lại sẵn sàng vui vẻ cho người già ấy nằm liệt một chỗ, vô tri giác và ta cùng gia đình hầu hạ để được tiếng là hiếu thảo!!! Chúng ta luôn sợ hãi viện dưỡng lão trong khi tôi nghĩ đó đáng lẽ phải là thiên đường, khi người già có bạn bè, có bác sĩ chăm sóc hàng ngày, được chăm sóc dinh dưỡng và sức khỏe tinh thần. Và kinh hãi một xã hội mà bố mẹ luôn coi con cái là lợn nuôi dưỡng già, để khi mình già thì mình mang ra mổ thịt chúng nó. Nghĩa là bắt con cái có nghĩa vụ yêu mình, chứ không cho phép chúng nó coi mình là bạn, yêu mình theo cách của chúng nó, chăm sóc bằng điều kiện mà chúng nó có thể cố gắng.
Và cả cái chết, tôi cũng không rõ vì sao người Việt Nam vô cùng kinh sợ những người khỏe mạnh đến giây phút cuối cùng trước khi chết. Gọi họ là “chết bất đắc kỳ tử”, “chết đường chết chợ”. Trong khi lại sẵn sàng chấp nhận những người không được mạnh khỏe minh mẫn những năm cuối đời, ưu ái và thông cảm gọi họ là “ốm liệt giường”. Vậy nói cho cùng, phải chúng ta đang lầm lẫn về giá trị của sự sống và cái chết, nguyền rủa người mạnh khỏe cho tới lúc chết đồng thời đi tán thưởng người bệnh tật cho tới lúc chết? Và kéo theo nó, sự trì trệ của dịch vụ y tế gia đình, sự vô trách nhiệm của những người hoạch định chính sách phúc lợi xã hội vốn đã bất hợp lý, sự phàn nàn của những đứa con quá khứ – những bậc lão trưởng tương lai, về đời sống.
Thậm chí, có những lúc tôi muốn rút ngắn giai đoạn, muốn viết ngay về sự sống, cái chết, niềm vui và hạnh phúc của người già ngay từ năm nay. Bị thôi thúc muốn gạt bỏ hết thảy mọi việc tôi đang làm để bắt tay xây dựng những chương trình truyền thông cho người già, một tờ tuần báo cho người cao tuổi thành phố, chương trình radio cho các cụ vùng quê, một chương trình truyền hình không thu tiền dành cho người cao tuổi.
Tôi cũng sợ chết. Vì thế tôi càng khao khát được sống nhiều hơn khi tôi còn đang được sống.
(ảnh: Cuốn gần nhất đọc trên đường đi núi là "Viết Cho Người Thương" của anh Trần Đình Dũng, tác giả rất tuyệt vời của một cuốn sách trước đây: "Quà Của Bố". Tác giả tự phát hành trên fanpage "Viết cho người thương" và không đồng ý bán tại nhà sách, vì cuốn này chỉ viết riêng cho những người đọc thương quý. Cả hai cuốn sách đều có thể đọc bất cứ lúc nào, giở bất kỳ trang nào ra và bắt đầu đọc!)